Mỗi năm vào tháng 12, thế giới cử hành Lễ
Chúa Giáng sanh. Có một số người nghĩ rằng Ba Ngôi Đức Chúa Trời ngự trên Thiên
Đàng nhìn thấy thương loài người phạm tội họ sẽ bị hư mất. Nhưng Chúa “...không muốn cho một
người nào chết mất, song muốn cho mọi người đều ăn năn.” (2 Phierơ 3:9). Vì vậy, Ngôi Hai Đức Chúa Trời đến thế gian
để tìm và cứu những kẻ bị hư mất. Quyền năng Đức Thánh Linh khiến cho Trinh Nữ Ma ri
mang thai, bà sanh một trai đặt tên là Giê-su. Do đó hằng năm chúng ta có lễ
Chúa Giê su giáng sanh.
Sự thật thì tiến trình Giáng sanh của Chúa Giê xu không
đơn giản như vậy, có nhiều chi tiết hơn.
Từ buổi Sáng
thế, khi loài người phạm tội, Ðức Chúa Trời đã tìm gặp A-đam, Ê-va và Con rắn
bị Sa tan lợi dụng lúc đó. Ðức Chúa Trời phán cùng Sa tan rằng: “Ta sẽ làm cho mầy cùng
người nữ, dòng dõi mầy cùng dòng dõi người nữ nghịch thù nhau. Người sẽ giày
đạp đầu mầy, còn mầy sẽ cắn gót chân người.” (Sáng thế ký 3:15).
Đây là lời hứa của
Đức Chúa Trời ban cho nhân loại Đấng Cứu Thế. Đấng Cứu Thế sẽ được sanh ra bởi
dòng dõi người nữ và Ngài sẽ thắng hơn Sa tan, Sa tan chỉ có thể cắn gót chân
Ngài mà thôi.
Ðể hoàn thành
lời hứa nầy, Ðức Chúa Trời đã kêu gọi Áp-ra-ham để từ Ông, Chúa tạo nên dân tộc
Y sơ ra ên và từ dân tộc nầy, Chúa Cứu Thế sẽ ra đời. Nhưng trải qua nhiều thế
hệ dân Y sơ ra ên có hằng triệu người, ai là Chúa Cứu Thế? Biết vậy Ðức Chúa
Trời dùng các Đấng Tiên tri nói trước về những dấu hiệu bày tỏ ai là Chúa Cứu
Thế.
Trước Chúa Cứu Thế giáng sanh khoảng 700 năm, Ê sai đã nói về Chúa Cứu Thế
rằng: “...một gái
đồng trinh sẽ chịu thai, sanh ra một trai, và đặt trên là Em-ma-nu-ên.” (Ê sai 7:14). Một cô gái đồng trinh chưa
có chồng mà lại chịu thai, như vậy con trai nầy sanh ra thuộc về dòng dõi người
nữ, chớ không phải do dòng dõi người nam, như tất cả mọi người khác.
Trước Chúa Cứu Thế giáng sanh khoảng 500 năm, Mi Chê nói rằng: “Hỡi Bết-lê-hem
Ép-ra-ta,.... từ nơi ngươi sẽ ra cho Ta một Ðấng cai trị trong Y-sơ-ra-ên; gốc
tích của Ngài bởi từ đời xưa, từ trước vô cùng.” (Mi chê 5:1). Nghĩa là
Chúa Cứu Thế sẽ sanh ra tại Bết lê hem.
Có nhiều dấu
hiệu khác nữa ở Cựu Ước, như nói Đấng Cứu thế bị phản bội (Thi thiên 41:9), bị
thủng hai tay và chơn (Thi thiên 22:16), bị đâm (Xa cha ri 12:10), người ta
chia nhau áo xống Ngài (Thi thiên 22:15), Ngài bị đặt vào hàng kẻ ác (Êsai
53:9) và còn nữa... Nhưng Đức Chúa Trời biết loài người bất toàn, nhiều người vẫn
không đủ khả năng nhận ra Đấng Cứu Thế, cho nên trước khi Đấng Cứu Thế sanh ra khoảng
15 tháng Đức Chúa Trời ban cho nhơn loại thêm một tiên tri nữa là Giăng Báp
tít. Giăng Báp tít chỉ thẳng vào Đấng Cứu Thế mà nói cho nhiều người biết rằng:
“Kìa,
Chiên con của Ðức Chúa Trời, là Ðấng cất tội lỗi thế gian đi.” (Giăng
1:29).
Điều nầy Kinh thánh ghi lại: “Trong đời Hê-rốt, vua nước
Giu-đê, có một thầy tế lễ, thuộc về ban tộc A-bi-a, tên là Xa-cha-ri; vợ người
là Ê-li-sa-bét, thuộc về chi phái A-rôn. Hai người không có con, vì Ê-li-sa-bét
son sẻ, và cả hai đều cao tuổi.” (Lu ca 1:5-7). Vua Hê rốt rất tàn ác. Ông đã ra lịnh giết tất cả con trẻ từ hai tuổi
trở xuống tại làng Bết lê hem, vì Ông muốn giết Con Trẻ Giê su mới ra đời ở đó.
Thưa Quý vị, vào thời kỳ đen tối như vậy mà lạ thay vẫn có những người hết lòng
yêu Chúa và sẵn sàng hầu việc Ngài như những người trong ban tộc A-bi-a, trong
đó có thầy tế lễ Xa-cha-ri.
Ngày nay cũng
vậy, thật là cảm tạ ơn Chúa về tấm lòng yêu mến Chúa của những con cái Chúa ở
vào những hoàn cảnh khó khăn. Họ bị bắt bớ, đánh đập, tù đày, nhưng họ vẫn theo
Chúa. Ði bộ năm bảy cây số để thờ phượng Chúa họ vẫn đi. Thức sớm từ 5 giờ sáng
để đi nhà thờ thờ phượng Chúa họ sẵn sàng đi. Làm chứng về Chúa có thể bị bắt
bớ, nhưng họ vẫn làm chứng về Chúa.
Tiếc thay có
những nơi con dân Chúa sống bình an, làm ăn khá dả, đi nhà thờ bằng xe hơi, nhưng
thường thường đến trễ! Chúa bảo: “Các ngươi hãy làm chứng về ta.” Nhưng ít khi
chúng ta làm chứng về Ngài cho người chưa tin. Có lần nào chúng ta có tự hỏi
rằng tôi có hết lòng yêu Chúa không? Và câu trả lời ra sao?
Khi Xa-cha-ri đang làm phận sự dâng hương thì có Thiên sứ của Ðức Chúa Trời đến
nói chuyện với Ông. Kinh thánh cho chúng ta thấy Ðức Chúa Trời thường hay đến
nói chuyện hay kêu gọi những ai siêng năng hầu việc Ngài. Ðức Chúa Trời kêu gọi
Môi se và A-mốt khi họ đang chăn chiên. Ðức Chúa Giê-xu kêu gọi Phi e rơ và
Anh-rê khi họ đang thả lưới. Ðức Chúa Trời ưa thích làm việc với những người
siêng năng. Vì vậy mà Phao lô kêu gọi con dân Chúa rằng: “Hãy siêng năng.” (Rô-ma 12:11). Vì ai siêng
năng hầu việc Chúa thì được phước của Chúa.
Khi Thiên sứ của Chúa hiện đến “Xa-cha-ri thấy thì bối rối
và sợ hãi. Nhưng Thiên sứ nói cùng người rằng: Hỡi Xa-cha-ri, đừng sợ.” (Luca 1:12-13).
“Ðừng sợ” là sứ điệp từ trời gởi cho
con dân Chúa. Chúa phán cùng dân Ngài rằng: “Đừng sợ, vì Ta ở cùng ngươi.” (Êsai 43:5). Khi Thiên sứ đến báo tin
Chúa Cứu Thế giáng sanh cho các gã chăn chiên, họ rất sợ hãi. Thiên sứ nói: “Ðừng sợ” (Lu ca 2:10). Tại sao chúng
ta cần có sứ điệp: “Ðừng sợ?” Tại vì
chúng ta thường hay sợ! Con dân Chúa không cần phải sợ, vì “Ðức Chúa Trời, là Ðấng
giàu lòng thương xót, vì cớ lòng yêu thương lớn, Ngài đem mà yêu chúng ta.” (Ê phê sô 2:4). Thật ra, chúng ta không cần
phải sợ nghèo, sợ đói, sợ hoạn nạn, sợ thua sút người khác... kể cả không cần sợ
chết. Chúng ta không tìm cái chết, nhưng nếu Chúa cho chết, thì xin biết rằng “...phước thay cho những
người chết là người chết trong Chúa.” (Khải huyền 14:13). Vì được “đi ở với Ðấng Christ, là
điều rất tốt hơn.” (Phi líp 1:23). Chúng ta chỉ nên sợ điều nầy mà thôi: Ðó là sợ mình
sống không đẹp lòng Chúa, và điều sợ lớn hơn nữa là sợ mình không đi thờ phượng
Chúa, dần dần xa Chúa rồi không còn tôn thờ Ngài nữa, từ bỏ Chúa, thờ thấn
khác, linh hồn bị hư mất.
Ông Bà
Xa-cha-ri không có con. Ông Bà lo lắng và cầu nguyện Chúa xin cho một đứa con
trai để nối dõi nối dòng. Thiên sứ báo tin cho Ông: “Hỡi Xa-cha-ri... lời cầu
nguyện ngươi đã được nhậm rồi. Ê-li-sa-bét vợ ngươi, sẽ sanh một con trai,
ngươi khá đặt tên là Giăng.” (Lu ca 1:13).
Theo Quý vị nghĩ thì từ lúc mấy tuổi Ông Bà cầu xin Chúa cho một đứa con trai? Lúc
Ông Bà mới lập gia đình ở tuổi đôi mươi, cho đến nay Ông Bà đã cao tuổi, có thể
hơn 60. Như vậy Ông bà đã cầu nguyện suốt 40 năm. Vậy thì, chúng ta học
được bài học là: “Hãy .... bền lòng mà cầu nguyện.” (Rô ma
12:12). Khi cầu nguyện, chúng ta không nên cầu nguyện
một cách qua loa rồi thôi. Chúng ta phải bền lòng mà cầu xin. Ví dụ như khi cầu
xin Chúa cho con cái của chúng ta yêu mến Chúa, chúng ta nên cầu xin Chúa hàng
ngày và cầu nguyện từ năm này qua năm khác. Chúa thấy tấm lòng của chúng ta
ngưỡng vọng lên Chúa, Ngài sẽ thương xót cho.
Ông Bà Xa cha ri chỉ cầu xin Chúa cho một con trai bình thường thôi, thế mà nay
Ngài ban cho Ông bà một con trai là một Tiên tri, hơn thế nữa, lại là Tiên tri
dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Tiên tri nầy nhờ ơn Chúa "sẽ lấy tâm thần quyền phép Ê-li mà đi trước mặt Chúa, để đem lòng cha
trở về con cái, kẻ loạn nghịch đến sự khôn ngoan của người công bình, đặng sửa
soạn cho Chúa một dân sẵn lòng." (Lu ca 1:17). Như vậy, Ðức
Chúa Trời đã ban cho Ông Bà điều lớn hơn, quý báu hơn điều Ông Bà cầu xin. Cám
ơn Chúa, đúng là: “Ðức Chúa Trời ... là Ðấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài.” (Hê bơ rơ 11:6b). Cho nên nếu đời sống chúng
ta hết lòng tìm kiếm Chúa, cầu khẩn Danh ngài chắc chắn chúng ta được Chúa ban thưởng
những điều quý báu hơn những gì chúng ta ao ước. Vì "người nào tin cậy nơi Ðức Giê-hô-va, sự nhơn từ vây phủ người ấy." (Thi thiên 32:10).
Ông Bà Xa-cha-ri cầu nguyện, Chúa nhậm lời, nhưng bây giờ Ông lại nghi ngờ. Ông
nói: “Bởi sao tôi
biết được điều đó? Vì tôi đã già, vợ tôi đã cao tuổi rồi.” (Lu ca 1:18). Xin mời Quý vị suy nghĩ:
Tại sao Xa-cha-ri nghi ngờ là Ông không thể có con? Tại vì Ông nghĩ rằng cả hai
Ông bà đều đã già rồi thì làm sao có con được? Ông suy nghĩ như vậy có lý
không? Thật thì có lý với loài người, nhưng không có lý với Ðức Chúa Trời. Ông
lấy sự già yếu để làm giới hạn quyền năng của Ðức Chúa Trời, nên Ông đã bị Chúa
phạt. Ông bị câm cho đến khi con trẻ được sanh ra.
Thưa Quý vị cuộc đời theo Chúa của chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn, và chúng ta
phải nhờ cậy Chúa "tập tành sự tin kính" (1 Ti mô thê 4:7) mỗi ngày.
Chúng ta đừng nghi ngờ quyền năng của Ðức Chúa Trời. Chúng ta đừng đem ý nghĩ
hữu hạn của mình để giới hạn quyền năng vô biên của Chúa. Xin chúng ta ghi nhớ
lời Kinh thánh dạy rằng: “.... phải lấy đức tin mà cầu xin, chớ nghi ngờ.” (Gia cơ 1:6).
Ðến kỳ sanh nở, Bà “Ê-li-sa-bét sanh được một trai.” (Luca 1:57). Ô, cảm tạ ơn Chúa, dù cho thầy tế lễ Xa-cha-ri có bất
tín, nhưng Ðức Chúa Trời vẫn thành tín. Chính Chúa phán rằng: “....lời nói của Ta ..., đã
ra từ miệng Ta, thì chẳng trở về luống nhưng, mà chắc sẽ làm trọn điều Ta muốn,
thuận lợi công việc Ta đã sai khiến nó.....” (Ê sai 55:11-12).
Vậy thì, vì yêu thương tội nhơn, Đức Chúa Trời đã hứa ban Đấng Cứu Rỗi, từ buổi Sáng thế. Rồi từ đó, Đức Chúa Trời đã chuẩn bị mọi sự hầu cho lời hứa của Ngài được ứng nghiệm, và Ngài còn ban cho chúng ta dấu hiệu Chúa Giê su là Chúa Cứu Thế của chúng ta.
Vậy thì, vì yêu thương tội nhơn, Đức Chúa Trời đã hứa ban Đấng Cứu Rỗi, từ buổi Sáng thế. Rồi từ đó, Đức Chúa Trời đã chuẩn bị mọi sự hầu cho lời hứa của Ngài được ứng nghiệm, và Ngài còn ban cho chúng ta dấu hiệu Chúa Giê su là Chúa Cứu Thế của chúng ta.
Cầu xin Chúa ban ơn cho
chúng ta hết lòng tin cậy Chúa và biết cám ơn Ngài, vì Chúa là Đấng Thành Tín
và là Đấng không bao giờ quên lời hứa Cứu chuộc chúng ta. Xin Chúa cho chúng ta
luôn luôn trung tín yêu kính Ngài. A-men.
Mục sư Trần Hữu Thành.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét