020 - TÌNH ÐẸP (Ru tơ 1:1-18).

          Hôm nay, tôi kính mời Quý vị đọc một chuyện tình đẹp. Tình đẹp đây không phải là: “Tình đẹp khi còn dang dở.” Nhưng tình đẹp giữa Bà mẹ chồng Na ô mi và con dâu Ru tơ.
Bà Na ô mi, có chồng là Ê li mê léc. Ông Bà ở trong đất hứa Bết lê hem. Nhưng vì cơn đói kém, nên Ông Bà và hai con trai dời nhà đến xứ Mô Áp. Dân Mô Áp đã chống nghịch lại dân sự của Ðức Chúa Trời, nên họ bị Ðức Chúa Trời rủa sả. Kinh Thánh chép: “Hỡi Mô áp, khốn thay cho ngươi!” (Dân số ký 21:29), và: “Dân... Mô áp sẽ không được phép vào hội Ðức Giê hô va, dầu đến đời thứ muời cũng chẳng hề vào được.” (Phục 23:3).
Sau khi đến Mô Áp, Ông Ê li mê léc chết. Bà Na ô mi buồn lắm và lo cưới vợ cho hai con trai là Mạc-lôn và Ki-li-ôn, Bà có được hai con dâu là Ọt ba và Ru tơ. Sau đó hai con trai của Bà cũng chết.
           Sau khi hai con trai qua đời, Na ô mi thấy nhà thật là vắng vẻ! Nhìn cây olive nhớ chồng, nhìn dàn nho nhớ con. Thế rồi bà nhìn cảnh nào cũng thấy buồn cả. Vì:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!”
           Nhưng tạ ơn Chúa, bây giờ Bà “có nghe nói rằng Ðức Giê hô va đã đoái xem dân sự Ngài, và ban lương thực cho,” (Ru tơ 1:8), nên Bà quyết định trở về Bết lê hem. Bà gọi hai con dâu đến và nói lời từ giả.
           Nói đến mẹ chồng và nàng dâu thì chúng ta biết ngày xưa có những nàng dâu rất sợ mẹ chồng, cho nên có câu ca dao rằng:
“Ví dù con phụng bay qua,
Mẹ chồng em bảo: con gà, em cũng thưa: vâng!”
          Nhưng Bà Na ô mi đối với hai người dâu thì không phải như vậy. Sắp trở về quê hương, Bà Na ô mi nói với hai người dâu rằng: “Hai con hãy trở về nhà mẹ mình đi... Rồi bà ôm hôn hai nàng, còn hai nàng cất tiếng lên khóc!” (Ru-tơ 1:8,9).
          Tại sao họ khóc? Tại vì nghĩ rằng họ sắp xa người thương yêu và có lẽ không gặp lại. Cảnh chia ly nào cũng buồn cả! Ngày xưa khi Lục Vân Tiên biết mình phải vĩnh biệt mẹ già, chàng đã:
“Gieo mình xuống đất dật dờ hồn hoa,
Hai hàng lụy nhỏ châu sa,
Trời Nam đất Bắc bao la dậm trường!”
           Người Việt Nam chúng ta cũng đã từng trải biết bao lần lâm vào hoàn cảnh sanh ly tử biệt, bom rơi, đạn nổ, bạn bè, thân thuộc từ trần, chúng ta khóc. Sau cuộc chiến, phải vượt biên chia tay người thân ở lại, chúng ta cũng đã khóc. Cảnh chia ly thật là buồn!
          Nhưng Quý vị ơi, sẽ có những cảnh chia ly buồn hơn như vậy nữa. Ðó là khi Chúa Jêsus tái lâm, sẽ: “có tiếng kêu lớn và tiếng của Thiên sứ lớn, cùng tiếng kèn của Ðức Chúa Trời....” (I Tê sa lô ni ca 4:16), vang dội cả vũ trụ nầy. Lúc đó sẽ có cảnh:
         - Hai người đang xây cối, "một người được đem đi, còn một người bị để lại;" (Ma thi ơ 24:41), có thể hai người nầy là chị em ruột với nhau.
         - Hai người nằm chung một giường, "một người sẽ được rước đi, còn một bị để lại," (Luca 17:34), có thể hai người nầy là vợ chồng với nhau.
           Ô, buồn biết bao! Vì đây là cuộc chia tay vĩnh viễn. Người có Chúa, được Chúa rước đi, hưởng Thiên đàng vĩnh phước; còn người không có Chúa, tội lỗi chưa được tha thứ, bị để lại lãnh án phạt đời đời nơi Hỏa ngục. Thật buồn kinh khiếp!
          Nếu Chúa tái lâm sáng mai thì sao? Thân nhân Quý vị còn có ai chưa tin Chúa không? Xin hãy cầu nguyện nhiều và tìm cách nói về Chúa cho những người đó nghe, để họ sớm tin nhận Chúa, kẻo những người nầy bị ở lại và Quý vị sẽ xa những người đó vĩnh viễn!
         Ọt ba và Ru tơ cất tiếng khóc và nói rằng: “Chúng con đi với mẹ, đến quê hương của mẹ.” (Ru tơ 1:10). Tại sao hai nàng dâu lại muốn đi với mẹ chồng? Tại vì họ yêu mến Bà mẹ chồng, qua cách ăn nết ở tốt của Bà. Bà mẹ nầy dù hoạn nạn, nhưng vẫn dễ thương, dù gặp cảnh buồn, nhưng không gắt gỏng. Có những bà mẹ chồng, khó khăn với con dâu. Nhưng Bà Na-ô-mi thì gọi hai con dâu là: “Hỡi hai con gái ta....” (1:11, 12).
         Vì vậy hai con dâu nói với Na ô mi rằng: “Chúng con đi với mẹ, đến quê hương của mẹ!” Họ thấy người mẹ chồng nầy có kính Chúa, yêu người, thật là tốt.
           Mỗi chúng ta có phải là người biết “kính Chúa yêu người” không? Xin nhớ “kính Chúa yêu người,” là điều Chúa Cứu Thế Giê su muốn thấy trong mỗi đời sống của mỗi Quý vị và tôi.
           Chúng ta nhớ rằng Ọt ba và Ru tơ là hai cô gái vốn tôn thờ tà thần. Nhưng, nay qua Bà Na ô mi, họ biết Ðức Chúa Trời là Chân Thần của họ. Họ nói: “Chúng con đi với mẹ, đến quê hương của mẹ,” nghĩa là họ nói: “Chúng con muốn theo mẹ để cùng thờ phượng Ðức Chúa Trời với mẹ.” Họ nói: “Ðức Chúa Trời của mẹ....” Nghĩa là họ biết Bà Na ô mi là: “Con dân của Ðức Chúa Trời.”
           Tại đây, chúng ta thấy trong Bà Na ô mi có hình ảnh giống Chúa Cứu Thế Jêsus. Nhìn vào đời sống của Ngài, các môn đồ phải nói rằng: “Thầy thật là Con Ðức Chúa Trời.” (Mathiơ 14: 33).
         Cầu xin Chúa cho Quý vị và tôi mỗi người đều có hình ảnh giống Chúa Jêsus đến nỗi những buổi nhậu, hoặc đi Casino, hoặc chạy theo những việc làm tối tăm, nếu có ai đó đề nghị mời Quý vị, thì người khác sẽ nói: “Ðừng mời anh đó. ‘Anh đó là con của Chúa,’ ảnh không tham dự những việc nầy đâu!” Nguyện xin Chúa cho mỗi chúng ta “là muối của đất.... là sự sáng của thế gian.” (Ma 5:13-14), để chúng ta làm rạng Danh Chúa Cứu Thế của chúng ta.
         Khi hai con dâu đòi theo mình, Bà Na ô mi giải thích sự thật cho hai nàng dâu nghe. Theo luật của người Y sơ ra ên thì nếu Bà có chồng nữa, và nếu bà sanh được hai đứa con trai, thì hai con trai nầy sẽ cưới hai nàng Ọt ba và Ru tơ làm vợ để nối dõi, nối dòng, cho hai người chồng của hai nàng đã chết. Nhưng Bà nói: “Hai con ơi, mẹ.... già quá rồi, không lấy chồng nữa.” (Ru tơ 1:12).
           Bà Na ô mi Bà đã nói những điều rất thật cho họ nghe. Ðiều tốt nhất là Bà sẽ sanh hai con trai, để cưới hai nàng. Nhưng điều nầy sẽ không xảy ra, vì Na ô mi không lấy chồng nữa. Nghĩa là theo cái nhìn thông thường, thì nếu đi theo Na ô mi thì hai nàng dâu sẽ không thấy tia sáng nào cho tương lai vật chất của mình cả! Nghe như vậy hai nàng dâu có hai quyết định ra sao?
         Với trí khôn của loài người, Ọt-ba cũng thấy nếu theo Bà Na-ô-mi sẽ không có tương lai vật chất tốt, nên nàng đã từ giả mẹ chồng, hôn Bà, rồi trở lại quê hương mình. Nghĩa là nàng đã trở lại với tà thần và trở lại vùng đất Mô Áp, là nơi bị Ðức Chúa Trời rủa sả!
         Thưa Quý vị, ngày nay cũng vậy, có những người theo Chúa, khi mà họ thấy theo Chúa chẳng giàu hơn ai, cũng có gặp những khó khăn, theo Chúa lại bị những ràng buộc như phải đi học Kinh Thánh, phải đi Nhà thờ; phải từ bỏ chè chén, đừng đi Casino, đừng tị hiềm, đừng hờn dai, đừng cố chấp, đừng ganh ghét, chớ phạm tội tà dâm.... Nghĩa là phải đóng đinh bản ngã cũ, cho con người cũ chết trên cây thập tự với Chúa Jêsus, thì những người đó bèn nói lời giả từ với Chúa.
          Họ nói lời giả từ cách dịu dàng giống như Ọt ba hôn mẹ chồng từ giả. Họ nói nào là tôi đâu có bỏ Chúa. Tôi thờ Chúa sáng Chúa nhật ở nhà. Tôi hát Thánh ca, đọc Kinh Thánh và cầu nguyện tại nhà... khi nào tôi trả nợ xong món nầy, có tiền mua xong thứ khác, hoặc có dư tiền chút đỉnh, tôi sẽ đi nhà thờ trở lại v.v..... Bao nhiêu năm ở Úc, Quý vị thấy có ai dư tiền không? Ai cũng thiếu nợ cả!
           Quý vị ơi, Ọt Ba chẳng bao giờ trở lại với Na ô mi, nên nàng không bao giờ trở thành con dân của Chúa trong xứ thánh Bết lê hem. Ngày nay cũng vậy, những người từ bỏ Chúa Cứu Thế Jêsus, nếu chẳng trở lại với Ngài, họ không bao giờ được cứu vào Thiên quốc vinh hiển của Ngài. Số phận họ là hư mất đời đời.
           Bà Na ô mi bảo Ru tơ: “Con hãy theo chị của con mà trở về nhà mình đi!” Ru tơ thưa rằng: “Xin chớ nài con phân rẽ mẹ, vì mẹ đi đâu, con sẽ đi đó... Dân sự của mẹ, tức là dân sự của con; Ðức Chúa Trời của mẹ, là Ðức Chúa Trời của con; mẹ chết nơi nào, con muốn chết và được chôn nơi đó....” (Rutơ 1:16-17). Na ô mi thấy Ru tơ quyết tâm theo mình, nên Bà bằng lòng.
          Nói tới quyết tâm, tôi xin kể cho Quý vị nghe một chuyện vui.
         Nhằm “ngày nghỉ lễ cuối tuần,” hai vợ chồng trẻ, chở đứa con chừng 7, 8 tuổi đi về nhà ngoại. Ở đó có Bà ngoại cưng, cậu bé rất ưa thích. Cha nó lái xe, sao lâu tới nhà Ngoại quá!
Nó ngồi phía sau, nhưng nó luôn miệng hỏi ba nó: “Ba à chừng nào tới nhà ngoại?” Ba nó nói: “Lát nữa.” Một chút sau, nó lại hỏi: “Ba à chừng nào tới nhà ngoại?” Ba nó trả lời hoài thấy mệt. Bổng Ông ta thấy một Bà cụ đứng bên đường cầm cây roi quơ qua quơ lại, có lẽ Bà đang rầy la các con cháu của Bà. Ba nó đánh trống lãng, nên bảo nó: “Con coi kìa Bà cụ cầm roi la gì kìa?” Nó nhìn qua phía Bà Cụ. Ba nó hỏi: “Bà cụ cầm roi la việc gì vậy con?” Nó trả lời rằng:
           - Bà cụ cầm roi la: “Ba chừng nào tới nhà ngoại?”
           - !!!!!!!!!!
          Thưa Quý vị, Bà Na ô mi nói cách gì thì Ru tơ cũng quyết tâm theo Bà. Ru tơ quyết tâm theo Na ô mi để làm gì? Có phải để làm giàu không? Không! Nàng nói: “Ðức Chúa Trời của mẹ, là Ðức Chúa Trời của con.” Nghĩa là mẹ là con của Chúa thì con cũng xin được làm con của Chúa. Con ước ao được sống trong cộng đồng những người tôn thờ Chúa như mẹ. Mẹ chết nơi nào con muốn chết và tại đó. Nghĩa là con ước ao được chết trong ơn của Chúa như Mẹ.
          Khi nàng quyết tâm như vậy, nàng có biết gì về tương lai của nàng không? Không! Nhưng nàng biết rằng khi nàng tin cậy Ðức Chúa Trời thì nàng sẽ được phước. Ru tơ đã học thuộc chân lý theo Chúa là: “Bước theo Chúa bởi đức tin, chớ không phải bởi mắt thấy.” (II Cô 5:7).
          Chúng ta học được ở đây là Ọt ba không nhìn thấy được những mối lợi trước mắt khi theo Chúa, thì nàng đã trở lui. Còn Ru tơ thì quyết tâm theo Chúa, dù không biết điều gì sẽ xảy ra, nhưng nàng tin rằng Chúa là Nguồn Phước, là Ðấng Nhơn từ, nên nàng lấy đức tin quyết tâm theo Chúa. Vả lại, nàng rất khôn ngoan. Nàng biết rằng nếu trở lại, thì cũng chỉ trở lại với tà thần và trở lại với vùng đất bị rủa sả, và số phận của mình chỉ đen tối mà thôi!
          Kính thưa Quý vị, ngày nay, nếu có người bỏ Chúa không thờ Ngài nữa, người đó sẽ thờ ai? Cầu xin Chúa cho mỗi chúng ta có được cái nhìn về cuộc đời theo Chúa như Ru tơ. Cảm tạ ơn Chúa: “Những ai trông đợi Ðức giê hô va không bao giờ bị hổ thẹn.” (Thi 25:3).
          Ðời sống của Quý vị có là một chứng nhân cho Chúa như Bà Na ô mi không? Quý vị muốn đời sống mình thối lui như Ọt ba, hay đời sống mình quyết tâm theo Chúa như Ru tơ?
Cầu xin Chúa Thánh Linh ở cùng và dẫn dắt mỗi chúng ta theo Ngài cho đến khi gặp Chúa. A-men.
Mục sư Trần Hữu Thành

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét